Tìm hiểu vãng sanh là gì? Điều kiện khi niệm Phật cầu vãng sanh

By Ngọc Khánh Updated on

Vãng sanh là gì? Đó là khái niệm mà không phải ai cũng biết đến và hiểu rõ ý nghĩa của nó như thế nào. Đây chắc cũng là thắc mắc của rất nhiều người. Vì vậy để có thể giải thích cho mọi người hiểu chính xác hơn về vãng sanh thì bài viết này tamlinh360 sẽ tổng hợp chi tiết và cụ thể thêm thông tin nhé!

tim hieu vang sanh la gi

Giải đáp: Vãng sanh là gì?

(徃生): tái sinh ở một cõi khác sau khi chết; cụm từ này thường được sử dụng thay thế cho “cái chết”. Vãng sanh ban đầu mang ý nghĩa là thọ xanh vào Ba Cõi, Sáu Đường như Tịnh Độ của chư Phật, nhưng hiện nay nó chủ yếu đề cập đến việc thọ sanh trong Thế giới Cực lạc (s: Sukhāvatī, 極樂) kể từ sau lý thuyết về Di Đà Tịnh Độ (彌陀淨土) đã trở nên phổ biến.

Cực Lạc Vãng Sanh

Vô Lượng Kinh Thọ (愡挏壽經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (駀愡挏壽經) và A Di Đà Kinh (阿彌陀經) là nền tảng lý thuyết cho điều này. Nghĩa là một người phải rời xa thế giới Ta Bà (s, p: sahā, 娑婆), du hành đến Cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà ở phương Tây và sinh ra trong hoa sen của cõi đó.

Thập Phương Vãng Sanh

Được dựa trên ý tưởng về Thập phương Tùy Nguyện Vãng Sanh Kinh vào Kinh (十方暨桘徃生經), nghĩa là vãng sanh ở một số Tịnh Độ bên ngoài thế giới của Đức Phật A Di Đà.

Đâu Suất Vãng Sanh

Điều này dựa trên các thuyết Di Lặc Thượng Sinh Kinh (彌勒渊生箓) và Di Lặc Hạ Sanh Kinh (彌勒渋生箓). Những ai đi theo con đường này cuối cùng sẽ được cùng với Bồ tát Di Lặc ở cõi Ta Bà sau khi được vãng sanh ở cung trời Đâu Suất.

Các tín ngưỡng tái sinh khác bao gồm những người tôn thờ Đức Phật Dược Sư sẽ tái sinh ở Tịnh Lưu Ly của Ngài (Ϸ瑠璃); tôn thờ Bồ tát Quán Thế Âm thì sẽ tái sinh ở Bodh Gaya; tin vào Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì sinh ra ở Linh Thứu Sơn (靈鷲山) và những ai tin vào Kinh Hoa Nghiêm sẽ được tái sinh vào Thế giới Hoa Tang (Ə藏禌).

Cực Lạc Vãng Sanh và Đâu Suất Vãng Sanh là hai trường phái tư tưởng phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và các quốc gia khác như đã đề cập vào thời gian trước đây. Cực lạc là một phương pháp tự lực để giác ngộ đối với một số tông phái Phật giáo chẳng hạn như Tam Luân tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông và Thiền tông.

Đối với Tịnh Độ Tông, Tín Ngưỡng Tha Lực dựa trên ý tưởng rằng con đường thành Phật có thể thực hiện được nhờ sự cứu độ của Đức Phật A Di Đà. Hơn nữa, Tử Sát Vương Sinh đối với Pháp Tướng Tông là có ý tốt, coi như là công pháp tu luyện.

Đối với Luật Tông, Tha Lực Tín Ngưỡng dựa trên ý tưởng rằng con đường thành Phật có thể thực hiện được nhờ sự cứu độ của giáo chủ Di Đà. Phù hợp đối với tư tưởng Pháp Tướng Tông là Đâu Suất Vãng Sanh, đó được coi cách thức tu đạo.

Thư tịchTác giả
Trung Quốc
An Lạc TậpĐạo Xước, 562-645 nhà Đường
Vãng Sanh Luận Chú hoặc Tịnh Độ Luận ChúĐàm Loan, 476-? thời Bắc Ngụy
Nhật Bản
Vãng Sanh Thập NhânVĩnh Quán
Vãng Sanh YếuNguyên Tín 
Nhật Bản Vãng Sanh Cực Lạc Ký Khánh Tư Bảo Dận 
Tục Bản Triều Vãng Sanh Truyện Đại Giang Khuông Phòng 
Thập Di Vãng Sanh Truyện và Hậu Thập Di Vãng Sanh Truyện Tam Thiện Vi Khang 
Tam Ngoại Vãng Sanh TruyệnLiên Thiền 
Bản Triều Tân Tu Vãng Sanh TruyệnĐằng Nguyên Tông Hữu
Cao Dã Sơn Vãng Sanh TruyệnNhư Tịch 

2 điều kiện niệm Phật cầu vãng sinh tịnh độ

Điều kiện thứ nhất

Để trở thành người niệm Phật trước hết phải phát Bồ đề Tâm. Tức là ở bên dưới hóa chúng sinh, bên trên phải cầu Phật đạo. Người Phật tử dù tinh tấn tu tập suốt kiếp nhưng nếu không phát tâm Bồ đề thì cũng uổng công, kết quả sẽ không còn.

Vì vậy, muốn nhanh chóng được vãng sanh Tịnh Độ và đạt được thành tựu mong ước, người tu niệm Phật trước tiên phải phát tâm Bồ đề. Đây là một điểm rất có ý nghĩa, rất hữu ích cho những cá nhân tu tập các pháp môn khác nói chung và niệm Phật nói riêng.

Sở dĩ gọi như vậy là vì “Bồ Đề” biểu thị cho sự giác ngộ, là quả vị của các bậc Duyên Giác, Thanh Văn và Vô Thượng Bồ Đề. Một hành giả được cho là đang phát Vô thượng Bồ đề tâm nếu họ phát tâm trên quả vị Phật và ở dưới sự cứu độ của chúng sinh.

2 dieu kien niem phat cau vang sinh tinh do

Tư tưởng Vô thượng Bồ đề căn bản dựa trên yếu tố trí tuệ và từ bi. Tuy nhiên, về hình thức, khi hành giả tạo tâm rộng rãi nội dung sẽ bao gồm hai khía cạnh: nội tại và ngoại tại.

Mỗi chúng sinh luôn có đủ tự giác; nhưng do rung động và bụi trần, tính cách của mỗi chúng sinh bị che mờ, khiến cho sự giác ngộ tiềm ẩn không thể nhìn thấy được nghiệp chướng. Cần tập bỏ ngồi với ý hướng phát huy tiềm năng giác ngộ sẵn có trong mỗi con người. 

Dù bất an, nhưng chúng sinh hoàn toàn đắm chìm trong thế giới của sắc trần và ngũ dục, nhưng điều này không có nghĩa là mất đi Giác tánh Bồ đề. Vì vậy, Đức Phật thường nói trong kinh: “Nhất thiết chúng sinh gia hữu Phật tánh”. 

Phát tâm như vậy gọi là phát tâm Bồ đề tự tánh nội tại, nó xảy ra khi hành giả phát tâm quay về tánh Giác tánh vốn có  sẵn của chính mình, về tự tánh của A Di Đà.

Nhưng để nhân loại hữu tình đạt được Vô thượng Bồ Đề tâm, họ cần những hoàn cảnh bên ngoài để giúp đỡ họ trên đường đi. Tam tạng Thánh giáo, bậc minh sư và thiện hữu tri thức là những hoàn cảnh bên ngoài cơ bản giúp hành giả có một trái tim vĩ đại. 

Sự hiểu biết các giáo lý khi gặp Kinh điển sẽ truyền cảm hứng cho hành giả phát Bồ đề tâm. Có lẽ học trò có tâm cung kính và muốn noi gương chư Phật, Bồ tát, Tổ sư, hoặc có thầy tốt, bạn tốt hoặc gương sáng của các vị này, nên từ đó phát tâm Bồ đề. 

Tâm này ra đời là kết quả của những ảnh hưởng hay sự giúp đỡ từ bên ngoài hay còn gọi là tư trợ ngoại tại. 

Tóm lại, Bồ đề Tâm là tâm nguyện thành Phật và đưa tất cả chúng sinh về cõi Phật của hành giả. Niệm Phật là một pháp môn nhằm mục đích hồi sinh về Tây Phương Cực Lạc. Hành giả bước vào thế gian thanh tịnh này với hoàn toàn thắng lợi và hoàn cảnh tiến đến Vô thượng bồ đề. 

Được phú cho trí tuệ và lòng từ bi, cũng như khả năng bảo tồn sự sinh thành, ngài trở về với Như Lai với ý định cứu giúp tất cả chúng sinh. Vì vậy, ước muốn được vãng sanh về Cực lạc là ước nguyện được lợi tha chứ không phải có tư duy hạn hẹp và cầu sanh Tịnh độ theo tinh thần của Bồ tát đạo. 

Điều kiện thứ 2

Danh hiệu Phật đòi hỏi người tu phải nghiêm trì Tịnh Giới  là yêu cầu thứ hai. Cách hiểu thông thường về giới luật là ngăn chặn điều sai trái, ngăn chặn việc làm ác hoặc ngăn ác làm lành (chỉ ác, làm lành). Ngài Buddhaghosa định nghĩa Giới là “chế ngự theo năm cách như sau:  

  • Chế ngự cùng với sự chế ngự của giới bổn patimokkha;
  • Chế ngự bằng tỉnh giác;
  • Chế ngự bằng tri kiến; 
  • Chế ngự bằng kham nhẫn; 
  • Chế ngự bằng tinh tấn. 

Giới có nghĩa là hợp nhất, vì nó hợp nhất ba nghiệp thân. Khẩu, ý, hướng tới con đường thánh thiện. Giới nghĩa là nền tảng, vì nó là cơ sở để người giữ giới cảm thấy mát mẻ.”

Có nhiều loại giới luật khác nhau và các học viên được yêu cầu tuân thủ chúng một cách nghiêm ngặt dựa trên các điều lệ mà họ đã được ban cho. Đạo Phật nghiêm cấm việc thực hành tùy tiện. Giới luật là nền tảng của Đạo, là sức sống của Phật pháp. 

Không có giới luật, hành giả sẽ không có động lực để phấn đấu tái sinh và sự chú ý và tuệ giác của họ sẽ không phát triển. Tịnh Độ tông và Luật tông là hai ông phái có quan hệ mật thiết với nhau trong mười tông phái Phật giáo. 

Các tôn giáo khác bị ảnh hưởng rất nhiều bởi hai nhóm này. Hai trường phái này được Đại dư Thái Hư cho là quan trọng: Luật là nền tảng chung và Tịnh độ là mái nhà chung của Tam thừa.

Nỗ lực làm việc thiện cho thế gian chơn lạc, sanh thiên hay vãng sanh Tịnh độ

Theo Kinh Bi Hoa, Đức Phật A Di Đà đã phát 48 lời nguyện quan trọng trước mặt Đức Phật trong suốt kiếp người của Ngài và trong đó có nguyện:

Con nguyện rằng trong vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp của Phật giới, khi con thành chánh pháp, sẽ có chúng sanh nghe danh hiệu con tu theo pháp lành, không cần thiết nghiệp chướng và mong muốn được đầu thai về thế giới của con, chắc chắn sẽ được tái sinh khi tình nguyện từ bỏ mạng sống và thân thể của mình, ngoại trừ những người phỉ báng thánh nhân, phá hoại chánh Pháp. 

Theo những lời dạy của Đức Phật được tìm thấy trong kinh điển Pali, những Pháp lành sau đây có thể áp dụng cho thế giới con người:

Theo Kinh Bi Hoa, phẩm 4: Nguồn gốc các Bồ Tát được thọ ký. Hán Văn:  Đàm Vô Sấm. Việt Văn của Thích Nữ Tâm Thường, trang 179 -180; Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Tập 3, số 157.

Để vơi đi nỗi muộn phiền của thân tâm, hãy thật lòng sẻ chia yêu thương bằng những điều trong sáng, những tài năng, những nỗ lực, những suy nghĩ trong sáng. Yêu cha, mẹ và gia đình của bạn.

Sau đó, yêu những ai xa lạ và bất hạnh. Đặc biệt là không nhất thiết nghiệp chướng. Việc thiện, pháp lành mà bạn làm đem lại hạnh phúc, cho mọi người và đem lại niềm vui cho chư Phật, chư Bồ tát và các bậc thánh nhân. 

Như lời Phật dạy trong Quán Kinh Vô Lượng Thọ: Ai hiếu thuận với cha mẹ, làm các việc thiện ở đời, nhất định được sanh về Cực Lạc, họ được an lạc và hạnh phúc với thiện hạnh này (pháp lành) của người tu Tịnh độ ngay trong đời này. Sau khi hiếu thuận cha mẹ của mình, nhất định họ sẽ được phước đức và vãng sanh Cực Lạc như ý nguyện.

Chư Phật ba đời đã khuyến khích Phật tử, nhất là Phật tử tại gia, nên thực hành bố thí tinh tấn vì đó là một thiện lành và một pháp lành. Kinh Địa Tạng Bổn Nguyên Thủy cho thấy một ví dụ nếu ai chia sẻ tình yêu và sự đồng cảm với những số phận bất hạnh của thế giới này có thể cúng dường cho vô số các Đức Phật.

Theo lời Đức Phật bảo Bồ Tát Địa Tạng, ở Nam Diêm Phù Đề có các vị Vua, Đại Thần, Đại Thần, Đại Trưởng Lão, Đại Sarip, Đại Bà La Môn, v.v…; ngay cả người lưng gù, tàn phế, câm, điếc, ngu si, chột mắt, đều bất toàn như vậy; những vị Vua đó sẽ được phước nếu họ bố thí cho người khác hoặc tự tay bố thí, mỉm cười và an ủi mọi người bằng những lời tử tế.

Cúng dường chư Phật nhiều như số cát trăm sông Hằng. Tại sao? Ngoài các vật dụng cứu mạng như quần áo, thức ăn và đồ uống, các vị vua đó thường chứa đầy phước lợi vì họ có lòng từ bi lớn lao đối với những người thấp kém nhất trong số những người nghèo khổ và những người tàn tật, và họ đã nhận được quả báo tích cực luân hồi như vậy trong hàng trăm ngàn kiếp.

Theo Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh, Phẩm 10: So sánh nhân duyên công đức của sự bố thí, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, trang 136-13

Làm thế nào để bạn có được công đức lớn? Những lợi ích to lớn không thể đến từ việc quyên góp với kỳ vọng về một tương lai tươi sáng hơn hoặc với mục đích cầu phúc cho con cháu của mình. 

Đồng thời, Bồ đề vô thượng hay Tây phương Tịnh độ được hồi hướng bằng cách cúng dường chúng sinh vì lòng bi mẫn và cầu mong cho họ bạt nhất thiết nghiệp, nghĩa là chấm dứt khổ đau phiền não, làm đẹp nhất tâm và đạt được điều gì đó còn đẹp hơn nữa.

Theo ĐTKVN, Tăng Chi Bộ III, chương 7, phẩm Tế đàn. Phần Bố thí, VNCPHVN ấn hành, 1996, trang 355

Quan sát bài kinh này, người ta có thể hiểu rằng thực hành bố thí với tâm rộng mở là con đường giải thoát cho người thực hành lòng từ bi, vì họ sẽ có thể sống một cuộc sống hạnh phúc trong cõi sắc giới sau khi nghiệp của họ đã hoàn thành. 

Vị Bất Lai (A Na Hàm) sẽ sớm nếm mùi vị giải thoát A La Hán ở cõi trời và sẽ không bao giờ trở lại cõi người nữa. Do đó, như Đức Phật đã dạy, một đệ tử của Ngài nên bố thí với tâm rộng mở.

Lời kết

Tâm Linh 360 mong rằng những thông tin trong bài viết trên sẽ giải đáp được các thắc mắc của các bạn cũng như hiểu rõ hơn về vãng sanh là gì. Cảm ơn sự đón nhận của các bạn và hãy theo dõi trang chủ chúng tôi nhiều hơn để cập nhật thêm các tin tức hấp dẫn khác nhé!

Bài viết liên quan