Tổng Hợp Các Tông Phái Phật Giáo Tại Việt Nam Đầy Đủ Nhất

By Ngọc Khánh Updated on

Các tông phái Phật giáo tại Việt Nam gồm 2 phái lớn, đó là: Bắc tông và Nam tông. Ở từng tông phái thì sẽ có những phái khác nhau. Bắc tông truyền theo tinh thần lời Phật dạy mà phát triển theo khế cơ. Nam tông nhất quyết giữ lại lời Phật dạy trong kinh chứ không thay đổi. Hãy đọc bài viết ngày hôm nay của Tamlinh360 để hiểu rõ hơn về những thông tin này nhé!

cac tong phai phat giao

Thông tin về Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa

Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, có 500 vị Sthavias tổ chức cuộc kết tập đầu tiên tại hang Saltapanni trong rừng Nigradha, cử Đại đức Maha Kassapa làm thủ lĩnh, và ngài Ananda tuyên bố những lời dạy của Đức Phật đã bổ sung cho kinh điển, cử Ngài Ưu Ba Li đọc lại những lời răn dạy của Đức Phật để kết tập Luật tạng, và Đại đức Kassapa đã chủ động giải thích giáo lý trong Kinh điển và làm ra Vi diệu pháp. Thường được gọi là Tam tạng kinh điển (Tripitaka).

Một trăm năm sau, trong giáo đoàn nổ ra cuộc tranh luận về cách giữ giới và hành đạo. Các trưởng lão đáng kính đã triệu tập hội nghị thứ hai tại thành phố Savat và bổ nhiệm đại đức Yaca làm chưởng ấn. Theo đó, chư Tôn đức luôn giữ phương pháp bảo thủ, còn đại chúng giữ phương pháp Tiên thủ. Nhưng cả hai không đi chệch lời Phật dạy.

Khoảng 200 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, vua A Dục (Asoka (227 – 274 TCN) triệu tập hội chúng lần thứ ba đến Pataliputra.

Khoảng 500 năm sau khi Đức Phật nhập diệt (thế kỷ I sau Công nguyên), vua Nước Chi là Kanisnka, giữ quyền bá chủ ở vùng tây bắc Ấn Độ có tính tôn giáo cao, đã triệu tập hội nghị lần thứ tư tại Jalandhara, do hai Tôn giả Pârcya và Vasumitra đứng đầu. tổng thống. , đây là phần lắp ráp cuối cùng.

Từ đó, trong Phật giáo có hai tông phái chính: Tiểu thừa (Phật giáo Nam Tông) và Đại thừa (Phật giáo Bắc Tông), hai bên tuy phân biệt như vậy nhưng vẫn tuân theo tôn chỉ của nhà Phật. Đại thừa, theo tinh thần giáo lý của Đức Phật, phát triển theo khế cơ. Tiểu thừa nhất quyết hộ trì lời Phật dạy trong kinh chứ không thay đổi.

Các tông phái Phật giáo có trong cả Đại thừa và Tiểu thừa

Luật tông

Tông phái Phật giáo này dựa trên giới luật. Vào thời Đường, ngài Trí Thường luận về các bộ luật (thập bộ luật, tứ phần luật, ngũ phần luật và tăng bộ luật) và đệ tử Đạo Tuyên đã phát hiện ra có 68 bộ tứ luật. Cơ sở của Trung Quốc, dựa trên bộ luật này, đã thiết lập “Luật Tông”.

Luật học chủ trương có học thì mới hiểu, giữ giới nghiêm chỉnh thì tâm sẽ thanh tịnh, trí huệ sẽ phát, chân tâm sẽ hiện, Phật tánh sẽ hiển.

Chủ trương của Luật tạng là nghiêm trì giữ giới. Những giới luật này bao gồm 250 giới luật dành cho tăng sĩ và 348 giới luật dành cho nữ tu.

Thiền Tông

Tông phái này nguyên thủy là của Không Bộ bên Tiểu thừa. Thiền tông không nói về vũ trụ, mà căn bản về giác ngộ (giải thoát), là một tông phái lấy thiền và định làm căn bản tu tập.

Thiền tông chủ trương “vô tướng lập”, chỉ có “tâm truyền tâm”, thực thể của vũ trụ thuộc về trực giác. Nếu dùng kinh văn để giải thích thì đều rơi vào hiện tượng của thế gian, không thể đạt tới thực tại chân chính. Không tọa thiền và trực giác không thể biết chân tánh.

Hai tông phái của Phật giáo Tiểu thừa

hai tong phai cua phat giao tieu thua

Câu Xá Tông

Vì Vasubandhu Bodhisatta lấy nghĩa từ kinh Đại Vi-bát-sa (Mahahvibhasacastra) viết ở Kosara, do ngài Trần Châu dịch và truyền đi rất nhanh ở Trung Hoa, nhưng rồi bị thất lạc. 

Mãi đến khi ngài Huyền Trang sau khi đi Tây phương thỉnh kinh, mang về dịch bộ mã này, thì đệ tử của ngài là Phổ Quang dựa vào đây làm “Kiệt Xà Thuật Ký” và ngài Then mới biết. trở thành một tông phái gọi là Tông Câu Xá nhưng chỉ thịnh hành đến cuối thế kỷ IX thì suy tàn nhường chỗ cho các tông phái Đại thừa.

Câu Xá Tông chia vạn vật thành Vô Vi Pháp và Hữu Vi Pháp. Pháp Vô Vi là nói đến cõi vĩnh hằng, không sinh không diệt, tức là thân vật chất. Pháp Hữu tình chỉ tất cả chúng sinh trong hiện tượng sinh diệt vô thường.

Nền tảng Giải Thoát dùng Giới, Định, Tuệ để hiểu rõ nhân quả của Tứ Diệu Đế. Dùng ba pháp học này mà đưa đến giải thoát tức là nhập Niết-bàn.

Thành Thực Tông

Tông phái này đồng thời với Câu Xá tông do Hà Lệ Ba Ma (Harivarma) giác ngộ Sở Chân thành lập khoảng 900 năm sau khi Phật nhập diệt.

Thanh Thư Tông chia thế giới quan thành hai môn: thế giới quan và đệ nhất nghĩa quan.

Trường phái này chủ trương “Nhân trống không, Pháp trống không”. Nhân dân và Pháp cũng vậy. Thực hiện được chân lý diệt đế, chân lý thứ ba của Tứ Diệu Đế cũng khá an lạc, giải thoát sáu nẻo.

Các tông phái Phật giáo Bắc Tông – Đại thừa

Pháp Tướng Tông

Tông phái này bắt nguồn từ Thành Duy Thức Luận, được phát triển ở Ấn Độ bởi Hòa thượng Thế Thân và ở Trung Quốc bởi Hòa thượng Huyền Trang khi ngài đi Tây phương trở về.

Vạn pháp đều do thức tạo thành. (Tam duy thức giới, vạn pháp duy thức) Thức có 8 thức: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức, Mạt Na Thức. Trong tám thức, A Lại Giao Thức là căn bản, vì nó chứa đựng tất cả những Hạt giống cho sự xuất hiện của tất cả các Pháp.

Tam Luận Tông

Phái này lấy Trung Quán Luận và Thập Nhị Môn Quán của Bồ tát Long Thọ và Bách Bình của Đức Bà Đề Bà, chủ trương phá chấp trình bày chân lý bằng phương pháp tu tập phá chấp tôn giáo. ngoại đạo nhận ra chân lý bằng cách suy ngẫm về “Bát bất trung đạo”.

Về mặt đạo đức, Tam Luận tông giống như một cửa ải, muốn tiến trên con đường giải thoát thì phải từ bỏ “Chấp trước”, nếu không muốn bị phát hiện quốc cấm này khi đi qua cửa ải.

Thiên Thai Tông (Pháp hoa tông)

Tông phái Phật giáo này có nguồn gốc từ Trung Hoa, do Đại sư Huệ Văn thiền sư đời Trần, Tùy (khoảng thế kỷ thứ 6) sáng tác trong Trí Độ Luận, tức là luận Bát Nhã Ba La Mật Đa và lấy Pháp Hoa làm tông. gốc, nên còn được gọi là Pháp Hoa Môn Phái.

Chủ trương của tông phái Thiên Thai này là coi vạn vật bình đẳng, vạn vật đều có quan hệ với nhau. Giáo lý này được gọi là “nhất thể” – bởi vì Hoa Nghiêm cho rằng mọi thứ đều bắt nguồn từ Một và mọi hiện tượng chỉ là hình tướng của Cái này. Đây là những hiện tượng của Pháp giới (zh. 法界, sa.dharmadhātu ), xuất hiện đồng thời. 

Tất cả các pháp (sa.dharma) đều có 6 đặc tính (lục tướng 六相) nằm trong ba cặp đối xứng là gần nhau và xa nhau; giống nhau và khác nhau; hòa nhập và quyền riêng tư. Dạng tĩnh của Chân Như (zh. 真如, sa. tathatā) là tánh không (空, sa. śūnyatā), tức là Lý (理), dạng động là Sự (事). Lý và Tương tác cùng nhau sinh ra vạn vật.

Giáo lý của Hoa Nghiêm tông xuất phát từ quan niệm vạn vật đều từ Pháp thân (Ba thân), tất cả các pháp trên thế gian đều phụ thuộc lẫn nhau, không có pháp nào tồn tại độc lập.

Tất cả các pháp đều là không, hai mặt của Tánh Không tĩnh (lý) và động (sự vật) đồng thời tồn tại, xuyên suốt, không ngăn ngại.

Mỗi hiện tượng đều đồng nhất với hiện tượng kia. Quan điểm này được Pháp Chương thể hiện qua một ẩn dụ nổi tiếng: con sư tử vàng. Con sư tử tượng trưng cho thế giới hiện tượng (Sự). Vàng có lý, vàng không có hình thức riêng, phải xuất hiện dưới một hình thức nào đó, nhưng hình thức nào cũng được. Mỗi phần của con sư tử là vàng. 

Trong mỗi bộ phận có cái toàn thể và ngược lại, cái toàn thể thể hiện trong từng bộ phận. Mỗi hiện tượng là biểu hiện của một lý do duy nhất và mỗi hiện tượng nói lên mọi thứ khác. Vàng và Leo tồn tại đồng thời, phụ thuộc lẫn nhau, bao hàm lẫn nhau. Pháp Tạng cho rằng mọi hiện tượng trên đời đều thể hiện nguyên lý này.

tong phai phat giao bac tong

Hoa Nghiêm Tông (hay Hiền Thủ Tông)

Tông phái Phật giáo này cũng bắt nguồn từ Trung Hoa trên cơ sở kinh Hoa Nghiêm do các Hòa thượng Đỗ Thuận và Trí Nghiêm sáng lập vào thời Tùy và Đường, người được ghi công và tôn xưng là Ngài Pháp Tạng, còn gọi là Hiền Thủ.

Trường phái này theo nguyên lý “Pháp giới duyên khởi” Vạn sự có tam đối và lục tướng do thập huyền, thập diệu, duyên khởi và sáu tướng mà phát sinh ra “Sự sự vô ngại”. Đây là đặc điểm nổi bật của giáo lý của trường phái Hoa Nghiêm Tông

Theo Tông này, phân biệt chân như vọng tưởng để đoạn trừ điên đảo. Để tâm thanh tịnh với thực tại Một Như đây là giải thoát.

Mật Tông (Chân Ngôn Tông)

Phật giáo Mật tông (zh. 密宗 mì-zōng) là từ gốc Hán dùng để chỉ pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 5 và thứ 6 ở Ấn Độ. Phật giáo Mật tông được chia thành hai trường phái: Mantrayana (Mantrayana) và Vajrayana (Vajrayana). 

Sự phát triển của Mật tông gắn liền với những nhà luận giải nổi tiếng như Subha Karasimha (Thiên Không Sợ Hãi, 637-735), Vajra Bodhi (Trí tuệ Kim cương, 671-741), Amoghavajra (Thực tại Kim cương, 705-774), Padmasambhava (Liên Hoa Sanh, cuối thế kỷ thứ 8), Dipankarasrijanana (Atisa, cuối thế kỷ thứ 11). 

Padmasambhava và Dipankarasrijanana được ghi nhận là người đã giới thiệu Mật tông đến Tây Tạng và trở thành tôn giáo chính ở đây.

Tông phái Mật tông lấy Đại Nhật Kinh làm cơ sở, lấy mật chú làm giáo lý nên còn gọi là Phật giáo Mật tông. 

Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cương Tát Đỏa, Kim Cương Tát Đỏa truyền cho Long Trí, Long Trí truyền trí tuệ Kim Cương, còn Trí Tuệ và Vương Quốc Kim Cương được đưa đến Trung Hoa vào thời Đường. 

Trường phái Shingon bảo vệ lý thuyết về sáu yếu tố: Đất, Nước, Lửa, Gió, Không và Thức. Hãy để lục địa là thực tế của vũ trụ.

Giải thoát khỏi trường phái này là do tự mình thành Phật, từ đó xả bỏ mọi dính mắc và nương theo sự hoạt động của Đại ngã bằng phương pháp Tam mật (thân, khẩu, ý).

Tịnh Độ Tông

Tông phái Tịnh Độ lấy mục đích quy y tịnh độ và chuyên trì tụng các kinh Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ Quán và A Di Đà. Pháp môn Tịnh độ ra đời từ bao giờ không rõ, chỉ thấy trong kinh điển có các vị bồ tát Long Thọ, Mã Minh và Thế Thân khuyên mọi người tu theo Tịnh độ. 

Tịnh độ tông cho rằng ai cũng có Phật tánh, đều có thể thành Phật, vì ở trong thế gian phiền não nên cầu về Tây phương cực lạc. Vì tự lực khó thành tựu, nên tìm Phật A Di Đà lực khác.

Mục đích của việc niệm danh hiệu A Di Đà là để tìm cách điều phục tâm. Thông thường người tập thiền đặt ra mục tiêu niệm bao nhiêu lần. Sự quán chiếu này được cho là sẽ giúp hành giả “nhìn thấy” Đức Phật A Di Đà và hai vị bồ tát, Quán Thế Âm (sa. avalokiteśvara) và Đại Thế Chí (sa. mahāsthāmaprāpta) và biết trước ngày viên tịch của Ngài. 

Việc trì tụng này có thể được thực hiện bằng cách đọc to hoặc đọc thầm, không nhất thiết phải có hình tượng A Di Đà. Đây là thực tế phổ biến nhất. Ngoài ra, hành giả có thể thi triển phép thứ 16 của kinh Vô Lượng Thọ, tạo ra linh ảnh Đức A Di Đà và thế giới Cực Lạc như hiện ra trước mắt. Thực hành cao nhất của trường phái này là coi bản chất của chính mình là A Di Đà. 

Tất cả hành giả Tịnh Độ đều muốn thấy Phật A Di Đà trong linh ảnh, đó là bằng chứng chắc chắn nhất về sự tái sinh trong cõi Cực Lạc. Niệm danh hiệu và tác ý là điều kiện “bên ngoài”, niềm tin vững chắc vào A Di Đà là điều kiện “bên trong” của pháp tu này, với hai điều kiện này hành giả sẽ được vãng sanh về nơi này, cõi Cực Lạc.

Ngày nay, Tịnh độ tông là tông phái phổ biến nhất ở Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.

Câu hỏi thắc mắc thường gặp về Phật giáo Nam tông và Bắc tông

cau hoi lien quan

Các tông phái Phật giáo Nam Tông và Bắc Tông khác nhau thế nào?

Phật giáo Nam tông cho rằng tất cả các pháp đều vô thường, luôn vận động và biến đổi. Nhưng vẫn có một cách tương đối không thể gọi là phù phiếm. Phật giáo Bắc Tông cho rằng tất cả các pháp tuy có nhưng thực ra là không, vì tất cả các pháp đều hư ảo và không có thật.

Kiến trúc chùa Bắc tông và Nam tông thờ ai?

Ở chùa thuộc hệ phái Bắc tông, ngoài thờ Phật ở trung tâm chánh điện, còn thờ Bồ tát, La Hán, thần linh, các vị thuộc Khổng giáo và Lão giáo. Chùa Nam Tông (Việt Nam và Khmer) chỉ thờ riêng Đức Phật Thích Ca với nhiều kiểu loại khác nhau.

Trên đây là bài viết giới thiệu đến người đọc các tông phái Phật giáo mà mọi người nên biết và quan tâm. Hy vọng rằng, toàn bộ thông tin trên sẽ thực sự bổ ích và có giá trị đối với các bạn. Đừng quên theo dõi và ủng hộ Tamlinh360 nhiều hơn để cập nhật thêm những nội dung hấp dẫn nhé!

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *