Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện có chữ trọn bộ năm 2023

By Ngọc Khánh Updated on

Kinh Địa Tạng Bồ Tát là một trong những kinh điển thiêng liêng của Đạo Phật, mang đến cho chúng ta những bài học sâu sắc về lòng từ bi và sự giúp đỡ đối với chúng sinh. Kinh này đã trở thành nguồn cảm hứng và niềm tin vững chắc cho hàng triệu người trên khắp thế giới. Hãy cùng Tamlinh360.com khám phá và lắng nghe những giá trị tuyệt vời mà bài kinh mang lại qua bài viết sau nhé!

kinh dia tang bo tat bon nguyen

Thông tin về Kinh Địa Tạng Bồ Tát

Lý do ra đời

Kinh Địa Tạng là bài giảng của Đức Phật Thích Ca được diễn ra tại cung trời Đao Lợi, tức là một trong sáu tầng trời của cõi Dục giới, nơi Thánh Ma Gia – mẹ của Đức Phật – đã chuyển sinh sau khi Đức Phật sanh ra được 7 ngày. 

Trước khi nhập Niết Bàn để tỏ lòng biết ơn với việc sanh thành, Đức Phật đã truyền bá Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện trong một pháp hội tại cung trời này. Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng Kinh Địa Tạng được ra đời như một biểu hiện của lòng hiếu thảo của Đức Phật dành cho bậc sinh thành. 

Ngài đã nhớ đến mẹ và tổ chức pháp hội này khi ông nhận thức rằng thân thể sẽ không còn trên đời lâu nữa, nhằm cứu độ cho mẫu thân.

Kinh Địa Tạng được truyền bá trong pháp hội này mang ý nghĩa vô cùng to lớn. Đức Phật đã thuyết pháp vì lòng hiếu thảo đối với mẹ, nhưng động cơ chính của Ngài là lòng từ bi dành cho tất cả chúng sinh trong cõi Đạo gia. Đặc biệt, Đức Phật đặc biệt quan tâm tới những chúng sinh đang trải qua nhiều khổ đau và tội lỗi.

Hành trạng và đại nguyện

Bồ Tát Địa Tạng là một Đại Bồ Tát được nhắc đến nhiều trong kinh điển Đại Thừa – một trong các tông phái Phật giáo, bởi sức mạnh và vai trò quan trọng của Ngài.

thong tin ve kinh dia tang bo tat

Nếu chúng ta tôn kính Đức Từ Phụ là Ta Bà Giáo chủ, thì Bồ Tát Địa Tạng cũng được coi là U Minh Giáo Chủ, tức là người hỗ trợ và giúp đỡ chúng sinh ở thế giới tương lai. 

Ngài là nguồn an ủi và nơi trú ẩn cho những linh hồn bị bỏ rơi, không có nơi nương tựa, cũng như cho những linh hồn bị giam giữ và trừng phạt do tội ác. 

Tên gọi của Bồ Tát Địa Tạng cũng mang ý nghĩa sâu sắc: Địa biểu thị đất đai chắc chắn, Tạng biểu thị sự bảo trì và chứa đựng. Danh hiệu của Ngài ám chỉ rằng Ngài là vị Đại địa rộng lớn, chứa đựng các kho tàng vô cùng quý giá.

Nghi thức tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát

Nếu chúng ta đọc, hiểu và thực hành đúng lời Phật dạy, chúng ta sẽ được công đức thù thắng. Con đường giải thoát là con đường diệt trừ mọi khổ đau, sanh tử, đưa đến an lạc cho tất cả chúng sinh. Đây cũng là tâm nguyện nguyên thủy của Địa Tạng Vương.

nghi thuc tung kinh dia tang bo tat

Bài tựa Địa Tạng Bồ Tát

Chí Tâm Quy Mạng Lễ:
U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát Ma ha tát.
Lạy đức từ bi đại Giáo chủ!
“Ðịa” là dày chắc, “Tạng” chứa đủ.
Cõi nước phương Nam nổi mây thơm.
Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ.
Mây xinh, mưa báu số không lường.
Lành tốt, trang nghiêm cảnh dị thường.
Người, trời bạch Phật: Nhơn gì thế?
Phật rằng: Ðịa Tạng đến Thiên đường!
Chư Phật ba đời đồng khen chuộng.
Mười phương Bồ Tát chung tin tưởng.
Nay con sẵn có thiện nhơn duyên.
Ngợi khen Ðịa Tạng đức vô lượng:
Lòng từ do chứa hạnh lành.
Trải bao số kiếp độ sanh khỏi nàn.
Trong tay đã sẵn gậy vàng.
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sinh.
Tay cầm châu sáng tròn vành.
Hào quang soi khắp ba ngàn Ðại Thiên.
Diêm Vương trước điện chẳng hiền.
Ðài cao nghiệp cảnh soi liền tội căn.
Ðịa Tạng Bồ Tát thượng nhơn.
Chứng minh công đức của dân Diêm Phù!
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát Ma ha tát.
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát Ma ha tát.
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn Tôn Ðịa Tạng Bồ Tát Ma ha tát.

Nguyện hương

Nguyệᥒ đem lòᥒg thàᥒh kíᥒh
Gửi theo đám mây hươᥒg
Phảᥒg phất khắp mười phươᥒg
Cúᥒg dườᥒg ᥒgôi Tɑm Bảo
Thề trọᥒ đời giữ đạo
Theo tự tíᥒh làm làᥒh
Cùᥒg pháp giới chúᥒg siᥒh
Cầu Phật từ giɑ hộ
Tâm Bồ đề kiêᥒ cố
Chí tu đạo vữᥒg bềᥒ
Xɑ biểᥒ khổ ᥒguồᥒ mê
Chóᥒg quɑy về bờ giác. (1 tiếᥒg chuôᥒg)
Nɑm mô Bồ Tát Hươᥒg Cúᥒg Dườᥒg.
Nɑm mô Bồ Tát Hươᥒg Cúᥒg Dườᥒg.
Nɑm mô Bồ Tát Hươᥒg Cúᥒg Dườᥒg.
(3 tiếᥒg chuôᥒg)

Khấn nguyện

(Quỳ chắp tɑy khấᥒ Tɑm Bảo cùᥒg chư Thiêᥒ, thiệᥒ Thầᥒ chứᥒg miᥒh)
Nɑm mô Phật Bổᥒ Sư Thích Cɑ Mâu Ni!
Coᥒ kíᥒh bạch chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiềᥒ Tháᥒh Tăᥒg chứᥒg miᥒh và giɑ hộ cho chúᥒg coᥒ; chư vị Hộ Pháp, Thiệᥒ Thầᥒ, Thầᥒ Liᥒh ủᥒg hộ cho chúᥒg coᥒ.
Đệ tử coᥒ têᥒ là:… Pháp dɑᥒh:… Hiệᥒ đɑᥒg ở tại:…………………. hôm ᥒɑy là ᥒgày… tháᥒg… ᥒăm… Coᥒ một lòᥒg ᥒươᥒg tựɑ Tɑm Bảo, coᥒ xiᥒ thực hàᥒh ᥒghi lễ sám hối và tụᥒg kiᥒh… để cho coᥒ được hiểu lời Phật dạy, rèᥒ sửɑ thâᥒ tâm, tu tập hóɑ giải ᥒghiệp chướᥒg, tăᥒg trưởᥒg phúc làᥒh, trí tuệ khɑi miᥒh.
Chúᥒg coᥒ cũᥒg ᥒươᥒg oɑi lực củɑ Tɑm Bảo, oɑi đức củɑ chư Tăᥒg mà ᥒhất tâm cuᥒg thỉᥒh chư Thiêᥒ, chư Thầᥒ cùᥒg các voᥒg liᥒh (đọc voᥒg liᥒh mà mìᥒh muốᥒ mời):… hoɑᥒ hỉ về tại đàᥒ tràᥒg, cùᥒg với chúᥒg coᥒ ᥒghe kiᥒh.
Nɑm mô Phật Bổᥒ Sư Thích Cɑ Mâu Ni!

Tán Phật

Đấᥒg Pháp Vươᥒg vô thượᥒg
Bɑ cõi chẳᥒg ɑi bằᥒg
Thầy dạy khắp trời ᥒgười
Chɑ làᥒh chuᥒg bốᥒ loài
Quy y trọᥒ một ᥒiệm
Dứt sạch ᥒghiệp bɑ kì
Xưᥒg dươᥒg cùᥒg táᥒ tháᥒ
Ức kiếp khôᥒg cùᥒg tậᥒ. (1 tiếᥒg chuôᥒg)

Quán tưởng

Phật chúᥒg siᥒh tíᥒh thườᥒg rỗᥒg lặᥒg
Đạo cảm thôᥒg khôᥒg thể ᥒghĩ bàᥒ
Lưới đế châu ví đạo tràᥒg
Mười phươᥒg Phật Bảo hào quɑᥒg sáᥒg ᥒgời
Trước bảo tọɑ thâᥒ coᥒ ảᥒh hiệᥒ
Cúi đầu xiᥒ thệ ᥒguyệᥒ quy y. (1 tiếᥒg chuôᥒg)
Chí tâm đỉᥒh lễ: Nɑm mô tậᥒ hư khôᥒg biếᥒ pháp giới quá, hiệᥒ, vị lɑi thập phươᥒg chư Phật, Tôᥒ Pháp, Hiềᥒ Tháᥒh Tăᥒg thườᥒg trụ Tɑm Bảo. (1 tiếᥒg chuôᥒg)
Chí tâm đỉᥒh lễ: Nɑm mô Sɑ Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổᥒ Sư Thích Cɑ Mâu Ni Phật, Đươᥒg Lɑi Hạ Siᥒh Di Lặc Tôᥒ Phật, Đại Trí Văᥒ Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạᥒh Phổ Hiềᥒ Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôᥒ Bồ Tát, Liᥒh Sơᥒ Hội Thượᥒg Phật Bồ Tát. (1 tiếᥒg chuôᥒg)
Chí tâm đỉᥒh lễ: Nɑm mô Tây Phươᥒg Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quáᥒ Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyệᥒ Địɑ Tạᥒg Vươᥒg Bồ Tát, Thɑᥒh Tịᥒh Đại Hải Chúᥒg Bồ Tát. (1 tiếᥒg chuôᥒg)
Chí tâm đỉᥒh lễ: Nɑm mô Đôᥒg Phươᥒg Giáo chủ Tiêu Tɑi Diêᥒ Thọ Dược Sư Lưu Ly Quɑᥒg Vươᥒg Phật, Nhật Quɑᥒg Biếᥒ Chiếu Bồ Tát, Nguyệt Quɑᥒg Biếᥒ Chiếu Bồ Tát, Thɑᥒh Tịᥒh Đại Hải Nhất Thiết Tháᥒh Chúᥒg. (3 tiếᥒg chuôᥒg)

Văn phát nguyện

Lạy đấᥒg Tɑm Giới Tôᥒ
Quy mạᥒg mười phươᥒg Phật
Nɑy coᥒ phát ᥒguyệᥒ lớᥒ
Thọ trì kiᥒh Địɑ Tạᥒg.
Trêᥒ đềᥒ bốᥒ ơᥒ ᥒặᥒg,
Dưới cứu khổ tɑm đồ,
Nếu có kẻ thấy ᥒghe
Đều phát Bồ Đề tâm
Hết một báo thâᥒ ᥒày
Siᥒh quɑ cõi Cực Lạc. (1 tiếᥒg chuôᥒg)
Nɑm mô Phật Bổᥒ Sư Thích Cɑ Mâu Ni. (3 tiếᥒg chuôᥒg)

Tán Pháp

Pháp Phật sâu mầu chẳᥒg gì hơᥒ
Trăm ᥒghìᥒ muôᥒ kiếp khó được gặp
Nɑy coᥒ ᥒghe thấy vâᥒg gìᥒ giữ
Nguyệᥒ hiểu ᥒghĩɑ châᥒ đức Thế Tôᥒ.
Nɑm mô U Miᥒh Giáo chủ Đại Từ – Đại Bi – Đại Nguyệᥒ Cứu Bạt Miᥒh Đồ Bảᥒ Tôᥒ Địɑ Tạᥒg Vươᥒg Bồ Tát Mɑ Hɑ Tát. (3 lầᥒ) (3 tiếᥒg chuôᥒg)

Nội dung Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện quyển thượng

noi dung kinh dia tang bo tat bon nguyen quyen thuong

Phần 1: Phật Hiện Thần Thông

Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao Lợi, Ðức Phật vì Thánh Mẫu mà thuyết pháp:
Lúc đó, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả chư Phật và đại Bồ Tát trong vô lượng thế giới ở mười phương đều đến hội họp. Rồi đồng khen ngợi rằng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể ở trong đời ác ngũ trược mà hiện sức “đại trí huệ thần thông chẳng thể nghĩ bàn”, để điều phục chúng sinh cang cường làm cho chúng nó rõ “pháp khổ pháp vui”. Khen xong, chư Phật đều sai thị giả kính thăm đức Thế Tôn.
Bấy giờ, đức Như Lai mỉm cười phóng ra trăm nghìn vừng mây sáng rỡ lớn. Như là: Vừng mây sáng rỡ đầy đủ, vừng mây sáng rỡ đại từ bi. Vừng mây sáng rỡ đại trí huệ, vừng mây sáng rỡ đại Bát nhã. Vừng mây sáng rỡ đại tam muội, vừng mây sáng rỡ đại kiết tường. 
Vừng mây sáng rỡ đại phước đức, vừng mây sáng rỡ đại công đức. Vừng mây sáng rỡ đại quy y, vừng mây sáng rỡ đại tán thán… Ðức Phật phóng ra bất khả thuyết vừng mây sáng rỡ như thế rồi lại phát ra các thứ tiếng vi diệu.
Như là: Tiếng Bố thí độ, tiếng Trì giới độ, tiếng Nhẫn nhục độ, tiếng Tinh tấn độ. Tiếng Thiền định độ, tiếng Bát nhã độ, tiếng Từ bi, tiếng Hỷ xả, tiếng Giải thoát, tiếng Vô lậu. Tiếng Trí huệ, tiếng Sư tử hống, tiếng Ðại Sư tử hống, tiếng Mây sấm, tiếng Mây sấm lớn.

Phần 2: Trời, Rồng… Hội Họp

Khi đức Phật phát ra bất khả thuyết bất khả thuyết tiếng vi diệu như thế xong. Thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỷ, Thần ở trong cõi Ta bà và cõi nước phương khác cũng đến hội họp nơi cung Trời Ðao Lợi.
Như là: Trời Tứ Thiên Vương, trời Ðao Lợi, trời Tu diệm Ma, trời Ðâu Suất Ðà. Trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại, trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ, trời Ðại Phạm. Trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Quang Âm, trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh. 
Trời Biến Tịnh, trời Phước Sanh, trời Phước Ái, trời Quảng Quả, trời Nghiêm Sức. Trời Vô Lượng Nghiêm Sức, trời Nghiêm Sức Quả Thiệt, trời Vô Tưởng, trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt. Trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, trời Sắc Cứu Cánh, trời Ma Hê Thủ La. Cho đến trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Xứ. Tất cả Thiên chúng, Long chúng, cùng các chúng Quỷ, Thần đều đến hội họp.
Lại có những vị Thần ở cõi Ta bà cùng cõi nước phương khác như: Thần biển, Thần sông. Thần rạch, Thần cây, Thần núi, Thần đất, Thần sông chằm, Thần lúa mạ. Thần chủ ngày, Thần chủ đêm, Thần hư không, Thần trên trời, Thần chủ ăn uống, Thần cây cỏ… Các vị thần như thế đều đến hội họp.
Lại có những Ðại Quỷ Vương ở cõi Ta bà cùng cõi nước phương khác, như: Ác Mục Quỷ Vương, Ðạm Huyết Quỷ Vương, Ðạm Tinh Khí Quỷ Vương. Ðạm Thai Noãn Quỷ Vương, Hành Bịnh Quỷ Vương, Nhiếp Ðộc Quỷ Vương, Từ Tâm Quỷ Vương. Phước Lợi Quỷ Vương, Ðại Ái Kính Quỷ Vương… Các Quỷ Vương như thế đều đến hội họp.

Phần 3: Ðức Phật Phát Khởi

Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử đại Bồ Tát rằng: “Ông xem coi tất cả chư Phật, Bồ Tát và Trời, Rồng, Quỷ, Thần đó. Ở trong thế giới này cùng thế giới khác, ở trong quốc độ này cùng quốc độ khác. Nay đều đến hội họp tại cung Trời Ðao Lợi như thế, ông có biết số bao nhiêu chăng?”.
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! nếu dùng thần lực của con để tính đếm trong nghìn kiếp cũng không biết là số bao nhiêu!”
Ðức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Ðến Ta dùng Phật nhãn xem hãy còn không đếm xiết! Số Thánh, phàm này đều của Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát từ thuở kiếp lâu xa đến nay, hoặc đã độ, đương độ, chưa độ. Hoặc đã thành tựu, đương thành tựu, chưa thành tựu”.
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng: “Từ thuở lâu xa về trước con đã tu căn lành chứng đặng trí vô ngại, nghe lời đức Phật nói đó thời tin nhận liền. Còn hàng tiểu quả Thanh văn, Trời, Rồng tám bộ chúng và những chúng sinh trong đời sau. 
Dầu nghe lời thành thật của Như Lai, nhưng chắc là sanh lòng nghi ngờ, dầu cho có lạy vâng đi nữa cũng chưa khỏi hủy báng. Cúi mong đức Thế Tôn nói rõ nhơn địa của Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát: Ngài tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như thế?”
Ðức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Ví như bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, lau, đá, núi, bụi bặm trong cõi tam thiên đại thiên. Cứ một vật làm một sông Hằng, rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, một hột cát làm một cõi nước, rồi trong một cõi nước cứ một hột bụi nhỏ làm một kiếp, rồi bao nhiêu số bụi nhỏ chứa trong một kiếp đều đem làm kiếp cả. 
Từ lúc Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát chứng quả vị thập địa Bồ Tát đến nay nghìn lần lâu hơn số kiếp tỉ dụ ở trên. Huống là những thuở Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát còn ở bực Thanh văn và Bích Chi Phật!
Này Văn Thù Sư Lợi! Oai thần thệ nguyện của Bồ Tát đó không thể nghĩ bàn đến được. Về đời sau, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào nghe danh tự của Ðịa Tạng Bồ Tát. Hoặc khen ngợi, hoặc chiêm ngưỡng vái lạy, hoặc xưng danh hiệu, hoặc cúng dường. 
Nhẫn đến vẽ, khắc, đắp, sơn hình tượng của Ðịa Tạng Bồ Tát. Thời người đó sẽ được một trăm lần sanh lên cõi trời Ðao Lợi, vĩnh viễn chẳng còn bị sa đọa vào chốn ác đạo.

Phần 4: Trưởng giả Tử Phát Nguyện

Này Văn Thù Sư Lợi! Trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp lâu xa về trước, tiền thân của Ngài Ðịa Tạng Bồ Tát làm một vị Trưởng giả tử. Lúc đó, trong đời có đức Phật hiệu là: Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai. Trưởng giả tử thấy đức Phật tướng mạo tốt đẹp nghìn phước trang nghiêm, mới bạch hỏi đức Phật tu hạnh nguyện gì mà đặng tốt đẹp như thế?
Khi ấy, đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai bảo Trưởng giả tử rằng: “Muốn chứng được thân tướng tốt đẹp này, cần phải trải qua trong một thời gian lâu xa độ thoát tất cả chúng sinh bị khốn khổ”.
Này Văn Thù Sư Lợi! Trưởng giả tử nghe xong liền phát nguyện rằng: “Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sinh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng đó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo”.
Bởi ở trước đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, Ngài lập nguyện rộng đó. Nên đến nay đã trải qua trăm nghìn muôn ức vô số bất khả thuyết kiếp, mà Ngài vẫn còn làm vị Bồ Tát!

Phần 5: Bà La Môn Nữ Cứu Mẹ

Lại thuở bất khả tư nghị vô số kiếp về trước, lúc đó có đức Phật hiệu là: Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Ðức Phật ấy thọ đến bốn trăm nghìn muôn ức vô số kiếp. Trong thời tượng pháp, có một người con gái dòng Bà La Môn. 

Người này nhiều đời chứa phước sâu dày, mọi người đều kính nể, khi đi đứng, lúc nằm ngồi, chư Thiên thường theo hộ vệ. Bà mẹ của người mê tín tà đạo, thường khinh khi ngôi Tam Bảo.

Thuở ấy, mặc dầu Thánh Nữ đem nhiều lời phương tiện khuyên nhủ bà mẹ người, hầu làm cho bà mẹ người sanh chánh kiến, nhưng mà bà mẹ người chưa tin hẳn. Chẳng bao lâu bà ấy chết thần hồn sa đọa vào Vô Gián địa ngục.

Lúc đó, Thánh Nữ biết rằng người mẹ khi còn sống không tin nhơn quả, liệu chắc phải theo nghiệp quấy mà sanh vào đường ác. Thánh Nữ bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương hoa cùng những đồ lễ cúng, rồi đem cúng dường tại các chùa tháp thờ đức Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương. 

Trong một ngôi chùa kia thấy hình tượng của đức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm.

Thánh Nữ chiêm bái tượng của đức Phật lại càng sanh lòng kính ngưỡng, tự nghĩ thầm rằng: “Ðức Phật là đấng Ðại Giác đủ tất cả trí huệ. Nếu đức Phật còn trụ ở đời, thì khi mẹ tôi khuất, tôi đến bạch hỏi Phật, chắc thế nào cũng rõ mẹ tôi sanh vào chốn nào”.

Nghĩ đến đó, Thánh Nữ buồn tủi rơi lệ chăm nhìn tượng Như Lai mà lòng quyến luyến mãi. Bỗng nghe trên hư không có tiếng bảo rằng: “Thánh Nữ đương khóc kia, thôi đừng có bi ai quá lắm! Nay ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ của mẹ ngươi”.

Thánh Nữ chắp tay hướng lên hư không mà vái rằng: “Ðức thần nào đó mà giải bớt lòng sầu lo của tôi như thế? Từ khi mẹ tôi mất đến nay, tôi thương nhớ ngày đêm. Không biết đâu để hỏi cho rõ mẹ tôi thác sanh vào chốn nào?”

Trên hư không lại có tiếng bảo Thánh Nữ rằng: “Ta là đức Phật quá khứ Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi đương chiêm bái đó. Thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sinh, nên ta đến chỉ bảo”.

Thánh Nữ nghe nói xong liền té xỉu xuống, tay chân mình mẩy đều bị tổn thương. Những người đứng bên vội vàng đỡ dậy, một lát sau Thánh Nữ mới tỉnh lại rồi bạch cùng trên hư không rằng: “Cúi xin đức Phật xót thương bảo ngay cho rõ chỗ thác sanh của mẹ con, nay thân tâm của con sắp chết mất!”.

Ðức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh Nữ rằng: “Cúng dường xong, ngươi mau mau trở về nhà. Rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời ngươi sẽ biết chỗ thác sanh của mẹ ngươi”.

Lễ Phật xong, Thánh Nữ liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng niệm danh hiệu của Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai trải suốt một ngày một đêm. Bỗng thấy thân mình đến một bờ biển kia. Nước trong biển đó sôi sùng sục, có rất nhiều thú dữ thân thể toàn bằng sắt bay nhảy trên mặt biển, chạy rảo bên này, xua đuổi bên kia.

Thấy những trai cùng gái số nhiều đến nghìn muôn thoạt chìm thoạt nổi ở trong biển, bị các thú dữ giành nhau ăn thịt.

Lại thấy quỷ Dạ Xoa hình thù đều lạ lùng: Hoặc nhiều tay, nhiều mắt, nhiều chân, nhiều đầu…Răng nanh chĩa ra ngoài miệng bén nhọn dường gươm, lùa những người tội gần thú dữ. 

Rồi quỷ lại chụp bắt người tội, túm quắp đầu chân người tội lại, hình trạng muôn thứ chẳng dám nhìn lâu. Khi ấy, Thánh Nữ nhờ nương sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ.

Có một vị Quỷ Vương tên là Vô Ðộc, đến cúi đầu nghinh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: “Hay thay Bồ Tát! Ngài có duyên sự gì đến chốn này?”.

Thánh Nữ hỏi Quỷ Vương rằng: “Ðây là chốn nào?”

Quỷ Vương Vô Ðộc đáp rằng: “Ðây là từng biển thứ nhất ở phía Tây núi đại Thiết Vi”.

Thánh Nữ hỏi rằng: “Tôi nghe trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có thiệt như thế chăng?”.

Vô Ðộc đáp rằng: “Thiệt có địa ngục”.

Thánh Nữ hỏi rằng: “Nay tôi làm sao để được đến chốn địa ngục đó?”.

Vô Ðộc đáp rằng: “Nếu không phải sức oai thần cần phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều này ra ắt không bao giờ có thể đến đó được”.

Thánh Nữ lại hỏi: “Duyên cớ vì sao mà nước trong biển này sôi sùng sục như thế, và có những người tội cùng với các thú dữ?”.

Vô Ðộc đáp rằng: “Những người tội trong biển này là những kẻ tạo ác ở cõi Diêm Phù Ðề mới chết, trong khoảng bốn mươi chín ngày không người kế tự để làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn cho. Lúc sống, kẻ đó lại không làm được nhơn lành nào cả.

Vì thế nên cứ theo nghiệp ác của họ đã gây tạo mà cảm lấy báo khổ ở địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển này.

Cách biển này mười muôn do tuần về phía Ðông lại có một cái biển, những sự thống khổ trong biển đó sắp bội hơn biển này.

Phía Ðông của biển đó lại có một cái biển nữa, sự thống khổ trong đó càng trội hơn.

Ðó đều là do những nghiệp nhơn xấu xa của ba nghiệp mà cảm vời ra, đồng gọi là biển nghiệp, chính là ba cái biển này vậy”.

Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô Ðộc rằng: “Ðịa ngục ở đâu?”

Vô Ðộc đáp rằng: “Trong ba cái biển đó đều là địa ngục, nhiều đến số trăm nghìn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thời có 18 chỗ, bực kế đó có 500 chỗ đủ không lường sự khổ sở, bực kế nữa có đến nghìn trăm cũng không lường sự thống khổ.

Thánh Nữ lại hỏi đại Quỷ Vương rằng: “Thân mẫu của tôi mới khuất gần đây, không rõ thần hồn của người phải sa vào chốn nào?”

Quỷ Vương hỏi Thánh Nữ rằng: “Thân Mẫu của Bồ Tát khi còn sống quen làm những nghiệp gì?”

Thánh Nữ đáp rằng: “Thân mẫu của tôi mê tín tà đạo khinh chê ngôi Tam Bảo, hoặc có lúc tạm thời tin chánh pháp, xong rồi chẳng kính. Dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ đọa lạc vào đâu?”

Vô Ðộc hỏi rằng: “Thân Mẫu của Bồ Tát tên họ là gì?”

Thánh Nữ đáp rằng: “Thân phụ và thân mẫu của tôi đều dòng dõi Bà La Môn. Thân phụ tôi hiệu là Thi La Thiện Kiến. Thân mẫu tôi hiệu là Duyệt Ðế Lợi”.

Vô Ðộc chắp tay thưa Thánh Nữ rằng: “Xin Thánh Nữ hãy về, chớ đem lòng thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Tội nữ Duyệt Ðế Lợi được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi.

Nghe nói nhờ con gái của người có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà sắm sửa lễ vật, tu tạo phước lành, cúng dường chùa tháp, thờ đức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Chẳng phải chỉ riêng thân mẫu của Bồ Tát đặng thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó, những tội nhơn Vô Gián cũng đều được vui vẻ, đồng đặng thác sanh cả”.

Nói xong, Quỷ Vương chắp tay chào Thánh Nữ mà cáo lui.

Bấy giờ, Thánh Nữ dường chiêm bao chợt thức tỉnh, rõ biết việc đó rồi, bèn đối trước tháp tượng của đức Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai mà phát thệ nguyện rộng lớn rằng:

“Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sinh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát”.

Ðức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Quỷ Vương Vô Ðộc trước đó nay chính ông Tài Thủ Bồ Tát. Còn Thánh Nữ Bà La Môn đó nay là Ðịa Tạng Bồ Tát vậy”.

Bạn có thể tải Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện trọn bộ PDF tại đây.

Hình tượng, ý nghĩa của bài Kinh Địa Tạng Bồ Tát

Hình tượng

Trên tay Bồ Tát Địa Tạng nắm cây Tích Trượng, có 4 vòng khoen biểu trưng cho Tứ Đế và 12 khuy biểu trưng cho 12 nhân duyên, hoặc có khi Ngài nắm Tích Trượng với 6 vòng khoen biểu trưng cho 6 căn. 

Tích Trượng được xem như một gậy vàng, vì nó giúp Tứ Đế thoát khỏi 12 nhân duyên và 6 căn, giải thoát chúng ta khỏi sự ràng buộc của thế gian. Khi đó, gậy vàng mới có thể phá tan cửa Địa Ngục, vô minh của tam độc: Tham, sân si và mạn nghi, để cứu độ cho toàn bộ chúng sinh.

hinh tuong y nghia cua bai kinh

Trên tay Ngài còn cầm châu ngọc sáng chói, đó chính là ngọc của tâm. Khi tất cả mọi người đều trở nên không tham lam và sân si, ngọc tâm sẽ tỏa sáng, chiếu rọi khắp thế gian.

Bồ Tát Địa Tạng chứng minh rằng công đức chính là tâm mình và là nguồn gốc của mọi công đức cũng như hành vi ác. Tâm chính là nguồn giải thoát, nhưng cũng là nguồn gây luân hồi và sinh tử. Do đó, chính tâm của chúng ta sẽ chứng minh cho chính chúng ta.

Ý nghĩa Kinh Địa Tạng Bồ Tát

Địa chính là tâm địa của Bồ Tát, khác với tâm địa của chúng sinh, có thể thay đổi chứ không cố định. Tâm địa của Bồ Tát là ổn định và bất hoại. Tạng là thức thứ tám có nhiệm vụ chứa đựng tất cả nghiệp thiện ác từ vô thỉ, nhiều kiếp cho đến ngày nay.

Thiện nhân duyên có cơ hội gặp Phật pháp, khi khen Địa Tạng công đức vô lượng, tâm mình phải hòa nhập với tâm Đia Tạng Bồ Tát bản nguyện.

Nếu như bạn muốn có tâm thanh tịnh, cuộc sống an nhiên thì nên nghe Chú Đại Bi nhé!

Lợi ích của việc trì tụng Kinh Địa Tạng

  • Lợi ích cho cuộc sống hiện tại: Người trì tụng Kinh Địa Tạng sẽ giúp cho người có cuộc sống bình an, gia đình hòa thuận, giúp giải trừ khổ nạn, thoát khỏi nghiệp chướng, tai ương.
  • Lợi ích cho kiếp sau: Tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát sẽ giúp cho đời sau thoát khỏi trói buộc và có được thân hình đẹp đẽ hơn.
  • Lợi ích cho người quá vãng: Tụng Kinh Địa Tạng giúp siêu thoát, cứu độ vong linh và tìm lại người đã mất.
  • Lợi ích lúc trước lâm chung: Nếu người thân của bạn sắp chết, hãy đọc Kinh Địa Tạng cho họ nghe. Vì Kinh Địa Tạng sẽ giúp cho những ai sắp đọa lạc về chánh đạo, không bị ma quỷ dẫn dắt…

Những lợi ích mà Địa Tạng Vương Bồ Tát mang lại đều dựa trên danh nghĩa nguyên khí của mỗi người. Vì vậy, nếu chuyên tâm trì tụng Kinh này sẽ giúp mang lại nhiều lợi ích vượt bậc, xua tan khổ nạn và mang lại nhiều may mắn.

Lời Kết

Bài viết hôm nay của Tâm Linh 360 đã chia sẻ đến quý bạn đọc những thông tin liên quan đến Kinh Địa Tạng Bồ Tát một cách cụ thể nhất. Nhờ bài kinh, chúng ta nhận thấy sức mạnh của lòng từ bi và công đức, khơi dậy trong lòng mình những ý chí tốt đẹp và nhân ái. Hãy sống theo lời dạy để lan tỏa tình yêu thương và giúp đỡ cho mọi chúng sinh nhé!

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *