Nội dung 12 nhân duyên và sự vận hành trong đạo Phật

By Ngọc Khánh Updated on

12 nhân duyên là một khái niệm quan trọng trong Đạo Phật, đề cập đến mối liên kết và tương tác giữa các yếu tố trong sự vận hành của cuộc sống. Chúng đại diện cho sự phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau của các yếu tố như nhân, duyên, sinh, tử và luân hồi. Đọc bài viết sau của Tamlinh360.com để thấu hiểu về “thuật ngữ” này nhé!

12 nhan duyen trong phat giao

Ý nghĩa của 12 nhân duyên

Mười hai nhân duyên: Nhân duyên là khả năng chính tạo ra sự vật; Duyên là khả năng phụ hỗ trợ cho khả năng chính tạo ra. Duyên sanh chỉ xảy ra khi có đủ duyên, và duyên khởi là quá trình tạo ra quan hệ dẫn đến sự sanh ra sự vật.

Dưới đây là video về 12 nhân duyên Trưởng lão Thích Thông Lạc, bạn có thể xem nhé!

Thập nhị nhân duyên là một phương pháp tu hành của Duyên giác thừa, nó tập trung quan sát tất cả các sự vật từ luân hồi cho đến hủy diệt, và nhận biết rằng tất cả đều phát sinh từ nhân duyên. Khi nhân duyên tụ họp, gọi là sanh, khi nhân duyên tan rã, gọi là diệt. Sự thật là không có sự sinh hay diệt nào tồn tại.

Trước khi Phật ra đời, đã có nhiều tu hành giác ngộ đạo lý nhân duyên và thoát khỏi luân hồi. Chính những người tu hành này được gọi là các vị Độc giác.

Tại sao gọi là “Nhân duyên”?

Nhân là nguyên nhân, chỉ cho những sự vật trực tiếp tạo ra một vật khác. Ví dụ như hạt lúa tạo ra cây lúa. Duyên là trợ giúp, chỉ cho những vật có tính chất hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp để thành vật khác. Ví dụ như phân bón, nước, ánh sáng, lao động là những trợ giúp giúp hạt lúa trở thành cây lúa.

tai sao goi la nhan duyen

Vậy nhân duyên là sự kết hợp giữa vật làm nguyên nhân và trả nợ duyên cho những vật xung quanh nó. Chữ “Nhân duyên” còn có nghĩa thứ hai: Các vật đều là “nguyên nhân”, và những “nguyên nhân” này tương tác với nhau để tạo ra các vật khác. 

Ví dụ như vôi, gạch, ngói, gỗ là nhân, và những nhân này tương tác với nhau để tạo ra một ngôi nhà. Bởi vì các yếu tố này tương tác lẫn nhau để tạo thành vật thể này hoặc thế khác, nên trong kinh Phật có viết: “Chư pháp trùng trùng duyên khởi”.

Nội dung của thập nhị nhân duyên là gì?

Cần phải nhận ra sự vận hành của nhân duyên, hiểu tác động của nhân duyên này đến sự xuất hiện của nhân duyên khác, dùng quán lý duyên khởi, loại bỏ các giai đoạn chính của chuỗi 12 nhân duyên, để đi đến chỗ sự chứng minh của con đường Duyên giác thừa.

Vô minh

Vô minh biểu thị sự thiếu sáng suốt, mịt mờ và không nhận thức được bản chất chân thật của duyên số. 

Vì vô minh, chúng ta không hiểu biết về các sự vật, cảnh vật, sự sinh, sự diệt, năng lực, trạng thái, sự có và không, tất cả đều phụ thuộc vào sự giao hội của duyên số và tạo ra sự giả dối, mất mát khi duyên số tan rã, và tất cả biến đổi theo duyên số như mơ hồ, không thể có thực. 

Vì không hiểu biết như vậy, ta hiểu lầm rằng có cái ta, có cái thân, có cái hoàn cảnh, và từ sự tương tác giữa thân tâm và cảnh giới, phát sinh những ý niệm không ngừng chuyển đổi và tiêu diệt.

Hành

Hành, nghĩa là những ý niệm không ngừng chuyển đổi và tiêu diệt đó, khiến chúng ta hiểu sai rằng có cái tâm riêng, cái ta riêng của mình, chủ động tạo ra các hành động và sau đó gánh chịu hậu quả.

Thức

Ý niệm không ngừng chuyển đổi và tiêu diệt tiếp tục đó, thông qua duyên số tạo ra nhận thức của mỗi đời, trải qua thân thể và cảnh vật của loài này hoặc loài khác.

Danh sắc

Các nhận thức theo duyên số tạo ra danh sắc. Sắc bao gồm những thực thể hình thái như thân thể và cảnh vật; Danh bao gồm những thực thể không có hình thái như ý thức hay hiểu biết.

Hay theo cách khác, nhận thức thuộc về duyên số nào, sẽ tiết lộ sự sâu thẳm của ý thức và cảnh giới của duyên số đó.

Lục nhập

Thân tâm đối với cảnh giới tạo ra quá trình lãnh nhận thông qua 6 giác quan. Mắt lãnh nhận màu sắc của thế giới thực, tai lãnh nhận âm thanh thực, mũi lãnh nhận mùi thực, lưỡi lãnh nhận vị giác thực, da lãnh nhận xúc giác thực và tâm lãnh nhận nhận thức về pháp thực.

Xúc

Nhờ vào quá trình lãnh nhận như vậy, các ảnh hưởng từ thế giới thực tác động đến ý thức, tạo ra các mối quan hệ giữa chúng, được gọi là xúc.

Thọ

Do mối quan hệ giữa ý thức và cảnh giới như vậy, sinh ra các trạng thái như khổ thọ, lạc thọ, hỷ thọ, ưu thọ và xả thọ.

Ái

Nhờ các trạng thái đó, tâm sinh ra lòng ưa hay ghét, yêu hoặc không yêu, tùy thuộc vào lạc thọ, hỷ thọ. Tâm sau đó liên kết với thân thể và cảnh vật một cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Thủ

Bởi vì tâm liên kết với thân thể và cảnh vật, không nhìn thấy sự thực như huyễn, không thể phân biệt được giữa điều tồn tại và điều không tồn tại. Thay vào đó, tâm kết hợp các ảnh hưởng rời rạc từ hiện tại thành các hình tượng xác định, và từ đó tưởng tượng rằng mọi sự vật đều có thật. Trạng thái tưởng tượng như vậy được gọi là thủ.

Hữu

Do tâm tưởng tượng trước, những điều huyễn và biến đổi trở thành thực tế, tồn tại thân thể, cảnh vật, con người, cái ta, hành động, hậu quả, sự sống và cái chết. Tất cả những điều này được xem là tồn tại, và sự tưởng tượng như vậy được gọi là hữu.

Sinh

Tồn tại sự sống, tức là có sinh. Nói cách khác, do không hiểu rõ đạo lý của duyên số như huyễn, không có ý thức tự thân, ta hiểu sai rằng có sự sống thực tế.

Lão tử

Lão tử biểu thị sự già đi và chết đi. Vì có sự sống, nên có sự già đi, rồi sau đó là cái chết.

Phân loại, công năng của 12 nhân duyên

Phân loại

  • Hoặc: Chỉ cho tâm trạng mê mờ nên phán đoán rất sai lầm. Vô minh, ái và thủ thuộc loại này.
  • Nghiệp: Chỉ cho những việc làm xấu xuất phát từ thân tâm; Chúng bao gồm: Hành và Hữu.
  • Khổ: Quả báo đau khổ vì nhân mê mờ (vô minh, ái, thủ) và ác pháp (hành, hữu) tạo thành. Thức, danh, sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão tử đều chịu quả báo do các nghiệp trên gây ra.

Công năng

  • Muốn chấm dứt luân hồi và giải thoát khổ đau thì chúng ta phải loại bỏ những nghiệp không lành mạnh của con người: Vô minh, Ái, Thủ, Hành, Hữu. Như vậy, sẽ không có quả báo trong hiện tại, tương lai: Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão tử.
  • Đoạn hết nghiệp nhân hữu lậu của con người là không để tâm mê mờ, nên trí tuệ sáng suốt.
  • Người chuyên quan sát, tu tập theo Mười Hai Nhân Duyên, đoạn trừ nghiệp chướng, thoát khỏi luân hồi, chứng đắc quả vị Bích Chi Phật.

Sự vận hành của 12 nhân duyên

Nói đến sự vận hành của mười hai nhân duyên cũng là nói đến sự vận hành của con người.

Không nhận ra rằng sự tồn tại (con người và thế giới) là do nhân duyên, luôn biến đổi, không có một tự thể thường hằng, con người ảo tưởng về một ngã: đây là “Tôi” và đây là cái “Của Tôi” (Vô minh). 

Chính sự si mê, vô minh này đã quấy động tâm thức, sinh tâm đố kỵ, chấp thủ… Và nó là động cơ của các hành động thân, khẩu, ý. Có thể hiểu là đã kết thành một dòng nghiệp lực để sẵn sàng đưa chúng sinh vào cõi luân hồi.

Bất cứ khi nào ý tưởng về một bản ngã phát sinh thì thức có mặt. Thức như một điều kiện cần thiết để sẵn sàng xuất hiện như một chúng sinh.

Sự tồn tại của Thức tất yếu phải có sự hiện diện của chủ thể chính là Danh – Sắc (điều kiện đủ). Sau đó, một chúng sinh được hình thành với tất cả các yếu tố của Ngũ Uẩn.

Theo danh sắc, lục căn xuất hiện, là những cơ quan bên trong có khả năng nhận thức đối tượng bên ngoài: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Đối tượng của sáu căn là những đối tượng của sáu căn là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.

Khi sáu căn tiếp xúc với sáu căn thì sáu căn sinh ra nhãn thức, nhĩ thức, nhịp thức, thiệt thức, thân thức và ý thức; Khi căn, căn và thức gặp nhau (sáu thức) thì có xúc.

Thọ (Thọ) có mặt ngay khi giác, trần và thức giao nhau; Cảm xúc sẽ tuôn trào như thác nước mà không sức lực nào có thể ngăn cản được, vì đó là bản chất của cảm xúc. Cảm giác bao gồm các phản ứng tâm lý đối với đối tượng như buồn, vui, thương, ghét, trung tính… (khổ, vui, v.v.). Một cảm giác dễ chịu sẽ khơi dậy sự luyến ái.

Khi có ham muốn thì có treo cổ, thu giữ, từ đây hình thành Thủ. Trong dục vọng có dính mắc và nó biểu hiện dưới nhiều hình thức tương ứng với cõi tâm thức (Bản thể).

Hữu tạo nên Sanh, và một khi đã có Sanh thì tiến trình suy tàn, tan rã và biến mất sẽ vận hành như một hệ quả tất nhiên: đó là già và chết, sầu não, than khóc, đau khổ, sầu não; nơi đau khổ có mặt.

Đó là sự vận hành của mười hai nhân duyên theo hướng khởi nguyên (lưu chuyển) – sự vận động này được thúc đẩy bởi vô minh, tham lam và chấp thủ. Đó là con đường khổ đau, luân hồi do vô minh dẫn dắt và chi phối.

Trong phần giải thích về mười hai nhân duyên, Đức Phật không chỉ chỉ ra con đường tập khởi như đã phân tích ở trên, mà Ngài còn chỉ ra con đường tập khởi và con đường đoạn diệt. Mỗi khi đoạn diệt một phần trong chuỗi 12 mắt xích (nhân duyên) thì nó liền tự tan rã.

Tuy nhiên, đối với con người, dục vọng và chấp trước là nặng nhất; Vì vậy, khi lòng đố kỵ và chấp thủ đã được từ bỏ thì chuỗi mười hai nhân duyên không còn lý do để tồn tại. Đây là ý nghĩa lời Phật dạy: “Ái diệt tức Niết bàn”.

Sự vận hành của mười hai nhân duyên không đơn giản là quá trình hình thành một sự sống (từ ý niệm thô sơ về sự tồn tại cho đến hơi thở cuối cùng), mà sự vận hành của nó (chiều thành lập – lưu chuyển) nói lên nguyên nhân tồn tại của con người. (và của cuộc sống). Nó không bị giới hạn về thời gian và không gian.

Qua bài viết hôm nay, Tâm Linh 360 đã chia sẻ đến mọi người những thông tin về 12 nhân duyên trong Phật giáo. Hy vọng rằng, các bạn sẽ thu thập nhiều kiến thức hữu ích. Đừng quên theo dõi và ủng hộ trang chủ của chúng tôi thường xuyên để cập nhật nhiều nội dung mới nhất nhé!

Bài viết liên quan